Trám phục hồi xoang IV là một trong những chỉ định thường gặp trong thực hành nha khoa ngày nay, được đa số bệnh nhân chấp nhận do tính kinh tế cũng như thẩm mỹ, đặc biệt là ở những bệnh nhân nhỏ tuổi, không phù hợp chỉ định mài răng.
Ca lâm sàng dưới đây trình bày tuần tự các bước trám phục hồi xoang IV trực tiếp bằng composite ở một bệnh nhân nhỏ tuổi và cho thấy kết quả điều trị hoàn hảo.
Bệnh nhân nam, 10 tuổi, được mẹ đưa đến phòng khám vì bị mẻ 2/3 răng cửa hàm trên (H1).

Bệnh nhân bị té xe đạp cách đó hai ngày. Mảnh gãy răng cửa đã bị mất. Người mẹ mong muốn một điều trị kĩ thuật cao, bảo tồn mô răng tối đa nhưng vẫn đảm bảo phục hồi lại răng tự nhiên như ban đầu.
Quy trình điều trị
1. Thăm khám
Khám lâm sàng không phát hiện thấy triệu chứng nào liên quan đến mô mềm, khớp cắn hoặc khớp thái dương hàm, răng không có dấu hiệu nứt gãy nào khác, không lộ tủy và không lung lay. Trên phim không thấy lộ tủy hay nứt gãy chân răng, bệnh nhân không có dấu hiệu đau kể từ khi bị té đến nay. Răng gõ không đau và có đáp ứng với test thử lạnh (H2-5).




2. Lập kế hoạch điều trị
Chỉ định trám tái tạo xoang IV trực tiếp bằng composite do bệnh nhân nhỏ tuổi.
3. Giáo dục bệnh nhân
Trao đổi với bệnh nhân cũng như phụ huynh về tuổi thọ phục hồi, khả năng điều trị tủy về sau, chấn thương chân răng có thể chưa phát hiện được, cách giữ gìn và chăm sóc, tái khám định kì để duy trì phục hồi.
4. Phân tích cấu trúc và màu răng
Phân tích hay vẽ sơ đồ cấu trúc và màu răng giúp hướng dẫn đắp lớp composite để đạt được thẩm mĩ tối ưu.
Bệnh nhân sau đó được bôi tê bề mặt, rồi gây tê bằng một ống Septanest (của Septodont, Lancaster, PA) với adrenalin 1/100,000.
5. So màu
Thực hiện so màu trước khi răng bị mất nước và đổi độ value trong quá trình điều trị. Máy quang trắc phổ (spectrophotometer) (Shadepilot, Degudent, Hanau, Đức) được sử dụng để hỗ trợ xác định màu răng trên cả R11 và R21, giúp lựa chọn màu composite sau cùng. Màu Body là A3 (VITA, Vident, Brea, CA). Từ đó các vật liệu và màu sắc được chỉ định gồm:
– Composite lỏng G-aenial Flo AO3 (GC America, Alsip, IL), dùng làm lót nền.
– Composite microhybrid G-aenial Anterior AO3 màu ngà (artificial dentin – AD) để tạo độ đục (opacity, hue và chroma).
– Composite microhybrid G-aenial Anterior A2 màu men (artificial chromatic enamel – ACE) để tạo hue, chorma và value.
– Renamel Creative Color Opaquer White (Cosmedent, Chicago, IL) để tái lập lại độ trắng ngà và tạo hiệu ứng đốm trắng trên men.
– Renamel Microfill Incisal Medium artificial achromatic enamel (AAE), để tạo hiệu ứng chuyển tiếp màu từ trong mờ (translucency) đến trắng sữa, và để đánh bóng dễ dàng, đảm bảo phục hồi tồn tại lâu dài khi tiếp xúc với các độ pH khác nhau (ví dụ pH thấp, acid từ kem đánh răng, thực phẩm,…).
– Adhesive Prime&Bond NT (Dentsply DeTrey GmbH, Konstanz, Đức).
6. Mock-up màu
Mock-up được thực hiện trên miệng bệnh nhân để nhận định lại “công thức” màu, đảm bảo sao chép màu và cấu trúc màu cho giống với răng cửa kế bên. Mock-up cho biết độ dày phù hợp trước khi trám.
7. Làm sạch răng
Răng được làm sạch bằng chỉ nha khoa, chổi đánh bóng và kem đánh bóng (Zircate, Dentsply), sau đó làm sạch bằng Chlorhexidine.
8. Mài sửa soạn
Bắt đầu mài với mũi kim cương đầu tròn (6856-016, Brasseler USA, Savannah, GA), vát khoảng 2 mm cạnh men mặt ngoài và mặt trong. Mài hoàn tất bằng mũi kim cương siêu mịn (7803, Shofu Dental, San Marcos, CA). Những cấu trúc men không được nâng đỡ thì phải được loại bỏ, nếu không thì đường viền men dễ có hiện tượng “lăng kính” (prism effect) khi đắp composite lên.
9. Chuẩn bị dán
Đặt đê cao su (SigmaDam, Sigma Dental System GmbH, Flensburg, Đức). Thổi cát R11 bằng bột Nhôm Oxide 50 µm (Micro Etcher II A, Danville materials, San Ramon, CA) để làm sạch bề mặt trước khi dán.
10. Dán
Etching bằng acid phosphoric 38% (Etch-Rite etching gel, Pulpdent, Water town, MA) trên men 30 giây và trên ngà 15 giây để loại bỏ lớp mùn tạo thành do việc mài sửa soạn. Sau khi rửa sạch với nước trong vòng 30 giây thì việc kiểm soát lại độ ẩm là cực kì quan trọng vì sự mất nước của ngà răng bị chống chỉ định tuyệt đối.
Bôi keo dán (Prime&Bond NT), thổi hơi nhẹ và chiếu đèn trong vòng 20 giây.
11. Bơm composite
Bơm composite lỏng vào đáy xoang trám và đảm bảo không tạo bọt, sau đó trùng hợp trong 20 giây với đèn LED (Bluephase 20i, Ivoclar Vivadent, Amherst, NY). Trám composite lỏng lót nền giúp tăng độ tiếp xúc với thành răng, giảm thiểu việc tạo khoảng hở giữa keo dán với nhựa composite, đồng thời làm giảm ứng suất co và nó còn có tác dụng như một chất “giảm shock”.
12. Đắp lớp
Với ba lớp composite tiếp theo, AD composite (màu A3) với độ chroma cao hơn chroma của men răng được đắp lên để tạo đường viền và chiếu đèn trong 20 giây.
Đắp lớp ACE (màu A2) mặt trong, điều chỉnh và trùng hợp trong 20 giây. Sau đó tiếp tục đắp ACE A2 lên cho đến mặt ngoài.
13. Tạo hình
Dùng cọ vẽ (#3, Cosmedent) để làm phẳng và làm trơn láng bề mặt composite và hạn chế tối đa sự tạo bọt hay khe hở. Dùng cây điêu khắc IPCT (Cosmedent) để tạo vát và tạo các khía cho phần composite rìa cắn, sau đó chiếu đèn trong 10 giây.
14. Thêm các chi tiết bề mặt răng
Dùng cọ vẽ #1 (Cosmedent) thêm một ít composite Creative Color Opaquer White để mô phỏng lại những đốm men trắng tương tự như R21 kế bên (H6). Chiếu đèn trong 20 giây.

15. Đắp lớp mặt ngoài cuối cùng
Lớp composite mặt ngoài cuối cùng là AAE (Incisal Medium) đắp lên toàn bộ mặt ngoài. Lớp này có khả năng khuếch tán ánh sáng ra xung quanh và cho phép nhìn thấy một phần màu của những lớp bên dưới. Chiếu đèn 20 giây.
16. Đắp lớp mặt bên cuối cùng
Phần cổ răng mặt bên giữa R11 và 21 nguyên vẹn cho phép đặt khuôn trám trong (KerrHawe, Bioggio, Thụy Sĩ) và chêm (Luciwedge Soft, KerrHawe) để tạo hình. Sau đó đắp một lớp AAE (Incisal Medium) lên phía ngoài và phía trong của cạnh bên. Để tạo dạng cong lồi cho mặt bên thì kéo khuôn trám nhẹ vào phía trong sau đó ấn vào cả hai phía (để tránh composite nhô ra quá nhiều ở mặt trong), chiếu đèn 20 giây.
17. Hoàn tất
Dùng dĩa đánh bóng composite (Sof-Lex mịn/thô, 3M ESPE, St. Paul, MN) và mũi kim cương hình ngọn lửa mịn/siêu mịn (8859-010, 859EF-010, Brasseler) để loại bỏ composite dư, chỉnh sửa đường viền và tạo lại hình dạng đúng. Dùng mũi ngọn lửa mài dọc theo trục răng, từ phía gần đến phía xa để tạo dạng cấu trúc perikymatous. Composite dư ở mặt trong có thể được mài bỏ bằng mũi quả bóng (6368-023, Brasseler). Xác định sự đối xứng giữa 2 răng cửa bằng compa kĩ thuật số (Dentagauge, Erskine Dental).
18. Đánh bóng
Đánh bóng mặt bên bằng dải đánh bóng kim cương (NTI-Kahla GmbH, Kahla, Đức). Mặt ngoài và mặt trong được đánh bóng bằng mũi kim cương siêu mịn (LT2, 7406, Shofu). Kiểm tra khớp cắn bằng giấy cắn (Trollffoil, Trollhatteplast, Trollhattan, Thụy Điển). Sau đó tất cả bề mặt đều được đánh bóng lại bằng mũi đánh bóng (Enhance, Dentsply) và Flexidiscs (Cosmedent). Trước khi đánh bóng lần cuối cùng, miếng trám được quét 1 lớp glycerin để chặn khí (Glyceringel, Ivoclar Vivadent). Trùng hợp lần cuối mỗi 20 giây ở mặt ngoài và mặt trong để đảm bảo sự trùng hợp tối đa của monomer composite. Cuối cùng đánh bóng hoàn tất bằng dĩa FlexiBuff và kem Enamelize (Cosmedent) (H7).

19. Kiểm tra và tái khám
Bệnh nhân được dặn dò cách chăm sóc vệ sinh răng tại nhà và tái khám sau 3 ngày để kiểm tra lại một lần nữa về thẩm mĩ cũng như chức năng, chụp phim kiểm tra để lưu trữ hồ sơ (H8).

Hẹn bệnh nhân tái khám sau mỗi 6 tháng (H9).


Nguồn: A Step by Step Guide to a Class IV, Direct Resin Restoration of a Fractured Tooth – Ingrida Ivance.
Related Posts
Tẩy trắng răng sẫm màu do nhiễm tetracycline – ca lâm sàng
Gắn phục hình (cementation) và hiểu về các loại cement gắn
Tẩy trắng răng đổi màu do chết tủy – P1